UNG THƯ
Các nguyên nhân gây ung thư
Hiện nay tỷ lệ mắc bệnh ung thư dự báo ngày càng tăng và kết quả chữa khỏi bệnh vẫn còn hạn chế do đa số phát hiện giai đoạn muộn. Một số ung thư ngay cả giai đoạn sớm cũng không phải chữa lành bệnh. Vì vậy, cách lý tưởng nhất là phải biết cách dự phòng ung thư.
Nguyên nhân sinh ung thư rất đa dạng, ngoài một số tác nhân đã
được biết rõ gây ung thư như thuốc lá, amian…vẫn còn nhiều nguyên nhân gây ung
thư đang được nghiên cứu.
Nghiên cứu nguyên nhân ung thư không chỉ dựa trên sự hiểu biết các
quá trình sinh học liên quan đến bệnh tật mà còn dựa vào bằng chứng dịch tễ học
mô tả và phân tích bao gồm sự giải thích những khác biệt quan sát được về tần
suất của một số loại ung thư theo giới tính, tuổi tác, hoàn cảnh kinh tế xã hội
và địa dư.
Ngày nay nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học, đặc biệt trong
lĩnh vực sinh học phân tử người ta biết rõ ung thư do nhiều nguyên nhân sinh
ra. Một tác nhân sinh ung thư có thể gây ra một số loại ung thư và ngược lại
một loại ung thư có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hiểu biết về các yếu tố
nguy cơ gây ung thư giúp dự báo nguy cơ mắc ung thư để có các biện pháp sàng
lọc phát hiện sớm, giáo dục và tư vấn sức khỏe. Nguyên nhân sinh ung thư gồm 2
nhóm chính là các yếu tố môi trường và tác nhân di truyền.
CÁC NGUYÊN NHÂN MÔI TRƯỜNG
Vai trò của các yếu tố sinh ung thư người có trong môi trường đã
được biết đến cách đây hơn 200 năm nhờ các phát hiện của một bác sĩ người Anh
tên là Percival Pott về sự gia tăng ung thư da bìu những người thợ nạo ống khói
vào những năm 1775. Kể từ đó, các bằng chứng về yếu tố môi
trường gây ung thư được ghi nhận ngày càng nhiều. Ngày nay, người ta
đã biết nhiều loại ung thư gây ra do yếu tố môi trường bao gồm các tác nhân vật
lý, hóa học, sinh học. Chúng tác động từ ngoài vào gây nên những đột biến của
tế bào và sinh ung thư.
1.Tác nhân vật lý
Chủ yếu là bức xạ ion hóa và tia cực tím.
1.1. Bức xạ ion hóa
Nguồn tiếp xúc tia phóng xạ tự nhiên chủ yếu từ các các tia vũ
trụ, đất hoặc các vật liệu xây dựng. Nguồn tiếp xúc phóng xạ nhân
tạo chủ yếu là trong chẩn đoán Y khoa. Tỷ lệ
tất cả ung thư do tia phóng xạ rất thấp (khoảng 2% - 3%).
Các bằng chứng dịch tễ học:
+ Các nhà Xquang đầu tiên đã không tự che chắn nên thường bị ung
thư da và bệnh bạch cầu.
+ Ung thư tuyến giáp gia tăng rõ những người điều trị tia xạ vào
vùng cổ lúc còn trẻ.
+ Ngày nay người ta thấy rằng bệnh phổi các thợ mỏ vùng
Joachimstal (Tiệp Khắc) và Schneeberg (Đức) quan sát được từ thế kỷ 16, chính
là ung thư phổi do sự hiện diện của quặng đen có tính phóng xạ trong các mỏ.
+ Nguy cơ ung thư phổi tăng cao trong các nghiên cứu về thợ mỏ
Uranium và thợ mỏ đá cứng dưới lòng đất phải tiếp xúc với khí radon vì lý do
nghề nghiệp.
+ Nghiên cứu những người sống sót trong vụ nổ bom nguyên tử
Hiroshima và Nagasaki Nhật Bản năm 1945 đã cho thấy tăng nguy cơ
nhiều loại ung thư đặc biệt ung thư máu thể tủy cấp.
+ 10 năm sau sự cố rò rỉ tia phóng xạ Chernobyl 1986,
người ta nhận thấy tỷ lệ ung thư gia tăng mạnh, trong đó đặc biệt trẻ em bị ung
thư tuyến giáp tăng gấp 10 lần.
Quá trình phóng xạ đã bắn ra các hạt làm ion hóa các thành phần
hữu cơ của tế bào tạo ra các gốc tự do. Chính các gốc tự do này tác động lên
các base của ADN làm rối loạn các gen tế bào tạo ra các biến dị và đột biến gây
ung thư, quái thai và dị tật.
Tác động của tia phóng xạ gây ung thư người phụ
thuộc vào 3 yếu tố quan trọng:
+ Tuổi tiếp xúc càng nhỏ càng nguy hiểm nhất là bào thai và trẻ
nhỏ.
+ Mối liên hệ liều đáp ứng: phơi nhiễm càng cao và càng kéo dài
thì nguy cơ càng tăng.
+ Cơ quan bị chiếu xạ: các cơ quan như tuyến giáp, tủy xương rất
nhạy cảm với tia xạ.
1.2. Bức xạ cực tím
Tia cực tím có trong ánh sáng mặt trời gồm 3 loại A, B và C gây
bỏng da, ung thư da, loét giác mạc và đục thủy tinh thể. Càng gần xích đạo tia
cực tím càng mạnh. Tia C gây đột biến mạnh nhất nhưng được lọc bởi tầng ozon.
Tia B kích thích các tế bào da tạo ra sắc tố melanin làm rám nắng và đỏ da và
tác động trực tiếp lên ADN làm lớp da lão hóa sớm và tế bào bị biến đổi thành
ung thư. Tia A do bước sóng dài nên ít gây ung thư da hơn.
Các bằng chứng dịch tễ học cho thấy những người làm việc ngoài
trời thường có tỷ lệ ung thư tế bào đáy và tế bào vảy của da khu trú vùng đầu,
cổ cao hơn những người làm việc trong nhà. Đối với những người da trắng sống ở
vùng nhiệt đới tỷ lệ ung thư hắc tố cao hơn hẳn người da màu.
Cần phải lưu ý trào lưu tắm nắng thái quá của người da trắng gây
bỏng nắng và tăng nguy cơ ung thư da. Hiện nay tầng ozon ngày càng mỏng đi do
ngày càng có nhiều chất thải độc hại từ mặt đất, sự phun của núi lửa làm hủy
hoại tầng ozon đã làm tăng cả về cường độ lẫn biên độ tiếp xúc với tia cực tím.
Kết quả dự báo sẽ gia tăng tần suất mới mắc của ung thư da cũng như một số bệnh
khác trong tương lai.
2. Tác nhân hóa học
2.1. Thuốc lá
Vai trò của thuốc lá gây ung thư đã được chứng minh rõ ràng bằng:
+ Các nghiên cứu dịch tễ học
+ Nghiên cứu các thành phần của thuốc lá
+ Phát hiện các tổn thương di truyền đặc thù ở các tế bào ung thư
và tế bào bình thường người hút thuốc lá,
+ Hiểu biết về sự chuyển hóa của các amine có trong thuốc lá.
Các nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rằng những người hút
thuốc lá có nguy cơ mắc các ung thư phổi, thanh quản, khoang miệng, thực quản
và bàng quang. Những ung thư này ít gặp ở những người không hút thuốc lá. Quan
sát cũng nhận thấy một số ung thư khác cũng đang gia tăng những người hút thuốc
lá: ung thư tụy, thận, mũi họng, dạ dày và ung thư máu.
Thành phần của khói thuốc lá: Có trên 4000 hóa chất có trong khói
thuốc lá trong đó 43 chất gây ung thư đã được nhận biết. Các chất này chủ yếu
là:
+ Các hydrocarbon thơm đa vòng: được tạo ra đốt cháy thuốc lá
không hoàn toàn hay trong các khói và bụi công nghiệp
+ Nitrosamine: là chất gây ung thư mạnh nhất ở động vật thí nghiệm
và có vai trò chủ yếu trong ung thư phổi, thực quản, tụy, miệng khi hút thuốc.
+ Hydrocarbon dị vòng: có trong nhựa thuốc lá là những chất gây
biến dị mạnh và sinh ung thư ở nhiều cơ quan khác nhau như gan, phổi…
+ Benzene
+ Polonium-210 có hoạt tính phóng xạ
Trình bày đầu tiên về mối liên quan giữa hút thuốc và tăng tỷ lệ
ung thư phổi được biết đến từ một nghiên cứu ca-đối chứng ở Đức năm 1939.
Từ đó người ta đã thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu
ca - đối chứng của hút thuốc với ung thư phổi tăng gấp 10 lầnnhững
người hút thuốc so với những người không hút thuốc.
Về sau nhờ vào các thống kê của Doll ở Anh người ta mới khẳng định
thuốc lá là nguyên nhân của khoảng 90% ung thư phế quản. Tính chung thuốc lá
gây ra khoảng 30% các loại ung thư chủ yếu là ung thư phế quản và một số ung
thư vùng mũi họng, ung thư đường tiết niệu. Ngoài chất Nicotin, trong khói
thuốc lá chứa rất nhiều chất Hydrocarbon thơm, trong đó chất 3-4 Benzopyren là
chất gây ung thư trên thực nghiệm. Tuy nhiên cơ chế sinh ung thư của thuốc lá
còn được tiếp tục nghiên cứu.
Ngoài ra hút được xem là nguyên nhân của nhiều bệnh phổ biến ngoài
ung thư như bệnh mạch vành, bệnh tắt nghẽn phổi mạn tính do thuốc lá...
Những bằng chứng gần đây cho thấy nguy cơ ung thư phổi gia tăng ở
những người không hút thuốc khi họ thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc thải ra
từ người hút thuốc (ví dụ khói thuốc của những người hút thuốc trong nhà ).
2.2. Chế độ ăn uống và
các chất gây ô nhiễm thực phẩm
Người ta nhận thấy có sự khác nhau giữa tỷ lệ ung thư đường tiêu
hóa theo vùng địa lý và theo thói quen ăn uống. Những thay đổi nhanh chóng về
tỷ lệ ung thư dạ dày (giảm) và tỷ lệ ung thư đại tràng (tăng) ở thế hệ người
Nhật đầu tiên di cư sang Mỹ là bằng chứng rõ ràng rằng những thay đổi môi
trường và chế độ ăn uống làm thay đổi nguy cơ của các loại ung thư này.
Lạm dụng rượu gây ung thư: Lạm dụng rượu là nguyên nhân làm tổn
hại sức khoẻ của nhân loại. Hằng năm người ta nhận thấy khoảng 15-30% số bệnh
nhân nhập viện là do tác hại của rượu. Uống rượu nhiều làm tăng tỷ lệ ung thư
cao chỉ sau thuốc lá. Nghiện rượu liên quan đến các ung thư vùng miệng, họng,
thanh quản, thực quản và gan. Càng tiêu thụ nhiều rượu thì nguy cơ ung thư càng
cao và ngược lại nguy cơ giảm nếu hạn chế uống rượu.
Chất béo và thịt: Các nghiên cứu cho thấy với chế độ ăn uống giàu
chất béo động vật làm tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư đại trực tràng. Ở các
nước phát triển, nơi tiêu thụ nhiều thịt người ta thấy tỷ lệ ung thư đại tràng
cao có ý nghĩa. Ngược lại, chế độ ăn nhiều trái cây và rau xanh, quả chín và
nhiều sợi thực vật cho thấy làm giảm tỷ lệ ung thư đại trực tràng. Tỷ lệ một số
loại ung thư khác như ung thư hạ họng thanh quản, thực quản, phổi và vú cũng
giảm nhẹ. Những chất gây ô nhiễm và chất phụ gia trong thực phẩm: Thịt cá hong
khói và ướp muối, các loại mắm và dưa muối có rất nhiều muối Nitrat và Nitrit.
Nitrat, Nitrit và Nitrosamin làm tăng nguy cơ ung thư thực quản và dạ dày.
Nitrosamin là chất gây ung thư khá mạnh trên thực nghiệm. Ngày nay ở các nước
giàu nhờ các tiến bộ về bảo quản thực phẩm rau và thực phẩm tươi sống bằng các
hầm lạnh, gian hàng lạnh, tủ lạnh đã làm giảm các thực phẩm có chứa muối Nitrat
và Nitrit. Tỷ lệ ung thư dạ dày ở các nước này càng giảm xuống
rõ rệt.
Thực phẩm mốc gây ung thư: Gạo, lạc là hai loại thực phẩm dể bị
mốc. Nấm mốc Aspergillus flavus thường có ở gạo, lạc mốc tiết ra độc tố
aflatoxin, chất này gây ra ung thư tế bào gan nguyên phát. Sự đột
biến gen P53 được tìm thấy trong 53% các trường hợp ung thư tế bào gan nguyên
phát ở các khu vực có độc tố aflatoxin trong thực phẩm.
Các thực phẩm bị ô nhiễm do thuốc trừ sâu có thể gây cơn bùng phát
ngộ độc cấp tính. Tuy nhiên ngày nay người ta chưa xác định được mối liên hệ
giữa hiện tượng này với các bệnh ung thư.
2.3. Các ung thư liên quan đến nghề nghiệp
Theo các nghiên cứu ở Pháp, phơi nhiễm nghề nghiệp có thể gây ra
khoảng 3% tử vong do ung thư.
Các nghiên cứu ở Mỹ những năm gần đây có tỷ lệ cao hơn
do phơi nhiễm với các chất như amian, arsen, nickel, chrome, benzene và các sản
phẩm của công nghiệp hóa dầu. Tuy nhiên phơi nhiễm nghề nghiệp là khó đánh giá
do có sự phối hợp với các yếu tố khác như thuốc lá và rượu.
Tác nhân sinh ung quan trọng nhất trong việc gây bệnh ung thư nghề
nghiệp chủ yếu là các hóa chất và ít gặp hơn là các tác nhân khác như vi rút,
bức xạ ion hóa. Việc đánh giá ung thư nghề nghiệp trong dân số chỉ mang tính
chất tương đối. Một công trình nghiên cứu ở Mỹ cho thấy rằng 4% ung thư có liên
quan đến nghề nghiệp. Một số đánh giá của các quốc gia công nghiệp hóa khác
thấy tỷ lệ này thay đổi từ 2-8%... các nước đang phát triển và
các nước mới công nghiệp hóa tỷ lệ ung thư do nghề nghiệp chưa được đánh giá
một cách rõ ràng. Các ung thư nghề nghiệp thường xảy ra ở các hệ cơ quan tiếp
xúc trực tiếp với các nhân sinh ung thư hay với các chất chuyển hóa còn hoạt
tính của các tác nhân này.
Pott (1775) lần đầu tiên đã mô tả tỷ lệ ung thư biểu mô da bìu cao
hơn ở những người thợ cạo ống khói, ông đã gợi ý mối liên quan với nghề nghiệp
và cho rằng mồ hóng là nguyên nhân. Hắc ín và các dẫn xuất của chúng có trong
dầu mỏ cũng được xem là các chất sinh ưng thư. Tần suất ung thư da cao ở những
người thợ đánh sợi và thợ máy là do họ sử dụng những thiết
bị được bôi trơn bằng dầu mỏ có chất hydrocarbon thơm là dẫn xuất từ
anthracene.
Ung thư nghề nghiệp thường hay gặp nhất ngày nay là ung thư đường
hô hấp. Người ta đã xác định một số hóa chất hay
hỗn hợp hóa chất trong môi trường
nghề nghiệp có liên quan nhân quả với bệnh ung thư phổi. Cơ
quan nghiên cứu ung thư quốc tế IARC đã đánh giá 10 hóa chất hay hổn hợp khác
như là khói thải của động cơ Diesel, beryllium và các hỗn hợp của nó, tinh thể
silica, cadmium và các hợp chất của nó có khả năng sinh ung thư người.
Amian có lẽ là chất quan trọng nhất gây ung thư phổi do nghề nghiệp. Hít bụi
(amian) sẽ gây xơ hóa phổi lan tỏa (asbertosis). Các nghiên cứu từ nhiều nơi
trên thế giới cho thấy số công nhân chết do nhiễm asbestos (asbertosis) thì tỷ
lệ ung thư phổi hiện diện từ 20-50% trường hợp trong đó bướu trung mô màng phổi
chiếm tỷ lệ cao (thậm chí thời gian tiếp xúc không dài).
Ung thư bàng quang cũng là một trong các ung thư nghề nghiệp
thường gặp nhất. Bắt dầu từ giữa thế kỷ XIX. Công nghiệp nhuộm azo đã phát
triển nhanh chóng. Vào cuối thế kỷ này những trường hợp ung thư bàng quang đầu
tiên đã được phát hiện ở các thợ thường tiếp xúc với chất Anilin. Chất Anilin
tự nó không sinh ra ung thư ở người và động vật nhưng Anilin có chứa nhiều tạp
chất 4-amindiphenyl có tính sinh ung thư. Các chất chính gây ra ung thư bàng
quang trong kỹ nghệ sản xuất anilin là Benzidine, 2 naphthylamine và
4-aminodiphenyl.
Hít thở Benzen có thể làm ức chế tủy xương và gây ra chứng thiếu
máu bất sản, nếu tiếp xúc Benzen với mức độ cao sẽ gây ra bệnh ung thư bạch cầu
tủy cấp. Ngoài ra nó có thể gây ra bệnh đa u tủy xương và u lympho ác tính.
Sarcoma phần mềm công nhân tiếp xúc với chất diệt cỏ có gốc
phenoxy; ung thư thanh quản gặp các công nhân tiếp xúc với hơi
acid vô cơ mạnh và ung thư các xoang cạnh mũi gặp ở công nhân tiếp xúc với
formaldehyd.
Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế đã liệt kê 100 loại hóa chất có
thể gây ra ung thư biểu mô và các Sarcoma ở các súc vật thí nghiệm. Một số hóa
chất này có thể gây ung thư nghề nghiệp nhưng phần lớn còn lại cho đến nay vẫn
chưa có bằng chứng.
2.4. Hóa trị liệu
Điều trị hóa chất chống ung thư có thể gây ra tổn thương ADN và
sinh ung thư. Ngày nay nhờ phát hiện sớm ung thư và sử dụng nhiều phương pháp
điều trị hiệu quả nên thời gian sống thêm kéo dài hơn. Một số ung thư điều trị
khỏi nhờ phát hiện ở giai đoạn chưa xâm lấn. Vì vậy vai trò sinh ung thư do hóa
chất cần phải được cân nhắc và có biện pháp sàng lọc ở những đối tượng này.
Nguy cơ gây ung thư do thuốc gia tăng phụ thuộc vào các yếu tố:
- Tuổi sử dụng: tuổi càng trẻ càng tăng nguy cơ.
- Thời gian tiềm tàng giữa sữ dụng thuốc và phát triển ung thư
trung bình từ 5 đến 10 năm ngắn hơn so với 40 đến 50 năm trong phơi nhiễm hóa
chất công nghiệp.
- Và sự hiện diện của các yếu tố cùng sinh ung thư như thuốc lá và
phơi nhiễm phóng xạ
Thuốc gây ung thư nhiều nhất là các thuốc chống ung thư vì các
loại thuốc này đã được chứng minh gây ung thư thực nghiệm và các loại ung thư
chủ yếu là ung thư máu và các loại u lymphô ác.
Ung thư máu thể tủy cấp là biến chứng hiếm của các thuốc nhóm alkyl.
Suy giảm miễn dịch do hóa trị, thuốc ức chế miễn
dịch, AIDS làm tăng nguy cơ mắc u lymphô ác do nhiễm EBV.
Ngày nay, có nhiều thuốc chống ung thư hiện đại có hiệu quả nên
thời gian sống thêm của bệnh nhân ung thư kéo dài hơn và nhiều loại ung thư có thể
chữa khỏi do được phát hiện sớm và sử dụng hóa trị đa phương thức nên vai trò
sinh ung thư do thuốc ngày càng được chú ý để có các biện pháp sàng lọc và phát
hiện sớm các ung thư thứ hai nay.
3. Các tác nhân sinh học
Các tác nhân sinh học ung thư chủ yếu là virus và một số trường
hợp có vai trò của ký sinh trùng và vi khuẩn.
3.1. Virus sinh ung thư.
Các oncogen đầu tiên được phát hiện ở virus. Sau đó người ta phát
hiện virus tích hợp vào ADN của tế bào vật chủ bình thường và điều hòa sự tăng
sinh tế bào mầm. Các virus sinh ung thư này gây nên ung thư bằng cách hoạt hóa
gen bình thường đó bên trong tế bào chủ.
Có 4 loại virus sinh ung thư ở người đã được mô tả.
- Virus Epstein – Barr (EBV):
+ Loại virus này được Epstein và Barr phân lập đầu tiên ở bệnh
nhân ung thư hàm dưới của trẻ em vùng Uganda, về sau người ta còn phân lập được
loại virus này trong ung thư vòm mũi họng, bệnh gặp nhiều ở các nước ven Thái
Bình Dương đặc biệt là Quảng Đông, Trung Quốc và một số nước Đông Á trong đó có
Việt Nam.
+ Virus Epstein-Barr thuộc họ Herpes được cho có vai trò bệnh sinh
của 4 loại UT:
U lymphô Burkitt.
Các u lymphô tế bào B ở những người suy giảm miễn dịch,
đặc biệt ở những bệnh nhân HIV-AIDS và ghép cơ quan.
Một số trường hợp bệnh Hodgkin. Ung thư biểu mô vòm họng.
- Ung thư gan và viêm gan siêu vi:
+ Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy viêm gan siêu vi B (HBV) có
mối liên hệ với ung thư gan nguyên phát (HCC). HCC thường gặp ở những vùng như
Châu Phi, Đông Nam Á và Trung Quốc. Có 80% trường hợp HCC liên quan đến nhiễm
virus viêm gan siêu vi B. Virus viêm gan B thuộc loại virus ADN, xâm nhập vào
cơ thể gây viêm gan cấp, kể cả nhiều trường hợp thoáng qua. Tiếp theo là thời
kỳ viêm gan mãn không có triệu chứng. Tổn thương này sẽ dẫn đến xơ gan toàn bộ
và ung thư tế bào gan. Ngoài ra xơ gan đã làm cho tiên lượng của bệnh ung thư
gan xấu đi rất nhiều.
Phát hiện những người mang virus bằng xét nghiệm HBsAg (+). Sự
liên hệ giữa virus viêm gan siêu vi B và ung thư tế bào gan đã dẫn đến ung thư
gan có thể phòng tránh được bằng cách sử dụng vaccine phòng viêm gan
B.
+ Viêm gan siêu vi C (HCV): Mặc dù mới được ghi nhận là gây ra
viêm gan không A, không B. người ta đã ghi nhận rằng tần suất ung thư gan
nguyên phát gia tăng gần đây trong một phần của người dân Nhật là do có sự
nhiễm virus viêm gan C một cách thường xuyên. Viêm gan do virus viêm gan A
không liên hệ với HCC.
- Virus gây u nhú (HPV) typ 16-18, -33, 39: Lây truyền qua đường
sinh dục. Loại này được coi là có liên quan đến các ung thư vùng âm hộ, âm đạo
và cổ tử cung. Hiện nay đã có vaccine phòng bệnh.
- Virus sinh u ARN: Mặc dù các nghiên cứu về retrovirus đã giúp
hiểu rõ hơn về cơ sỡ phân tử của ung thư nhưng chỉ có một loại retrovirus ở
người, virus gây bệnh bạch cầu tế bào T ở người type I (HTLV-1: Human T cell
Leukemia Virus type I) được khẳng định chắc chắn là nguyên nhân gây ung thư.
HTLV 1 gây bệnh bạch cầu tế bào/u lymphô tế bào T thành dịch ở một số vùng của
Nhật Bản và Caribê nhưng cũng phát tán ở một số vùng khác.
3.2. Ký sinh trùng và vi trùng
- Mối tương quan giữa ký sinh trùng và bệnh ung thư được biết
nhiều nhất là tình trạng nhiễm Schistosoma với ung thư bàng quang và giữa nhiễm
sán lá với ung thư ống mật. Người ta tìm thấy nhiều nhất ở Ai Cập, Irắc, Xuđăng
và Zimbabuê.
- Helicobacter Pylori: Ngày nay càng có nhiều bằng chứng về sự
liên quan của nhiễm khuẩn dạ dày do H. pylori với u lymphô dạ dày và ung thư
biểu mô dạ dày. Sự liên quan này rõ ràng hơn với u lymphô dạ dày so với ung thư
biểu mô dạ dày. Mối liên quan này đã được chứng minh bằng các nghiên cứu dịch
tễ học cũng như bằng việc phát hiện H. pylori phần lớn u
lymphô dạ dày. Bỡi vì u lymphô phát sinh trong mô lymphô thuộc niêm mạc dạ dày
(MALT: Mucosa Asociated Lymphoid Tissue ) nên còn gọi là u MALT (Maltoma).
Những tế bào B sinh ra các u này nằm ở vùng rìa của các nang lymphô nên còn gọi
tên khác là u lymphô vùng rìa (marginal zone lymphoma). Cơ chế sinh u ung thư
của H. pylori chưa thật rõ nhưng có lẽ do sự tăng sinh của lymphô T phản ứng
với H. pylori và các tế bào T này hoạt hóa một quần thể đa dòng các tế bào B
bằng việc chế tiết các yếu tố hòa tan.
CÁC NGUYÊN NHÂN BÊN TRONG
1. Yếu tố di truyền
Từ khoảng 15 năm tr lại đây nhờ những tiến bộ trong
lĩnh vực nghiên cứu sinh học phân tử người ta đã biết được sự liên hệ chặt chẽ
giữa các biến đổi vật liệu di truyền và sự xuất hiện một số bệnh ung thư.
Một số tình huống về mặt di truyền: 80 - 90% người sẽ bị ung thư
do họ mang gen gây hại U wilms, ung thư nguyên bào võng mạc 2 mắt và những bệnh
nhân đa polip có tính chất gia đình là thí dụ về các loại ung thư truyền theo
tính trội theo mô hình của Mendel. Ung thư tuyến giáp thể tủy (loại ung thư
tuyến giáp có tiết ra Thyrocalcitonine) cũng mang tính chất di truyền rõ rệt.
Những năm trở lại đây nhờ những nghiên cứu về gen, người ta đã
phân lập được các gen sinh ung thư (Oncogen) thực chất các gen
sinh ung thư (proto-oncogen). Dưới tác động của một vài tác nhân nào
đó tiền gen sinh ung thư hoạt hóa và biến thành gen sinh ung thư. Từ đó gen
sinh ung thư mã hóa để sản xuất các protein và men liên quan đến quá trình phân
chia và biệt hóa tế bào theo xu hướng ác tính, ví dụ trong bệnh ung thư bạch
cầu mạn thể tủy, 90% tế bào mầm tạo huyết có sự chuyển đoạn 9/22.
Một loại gen quan trọng khác và các gen ức chế ung thư
(Anti-oncogen). Khi cơ thể vắng mặt các gen này, nguy cơ mắc ung thư sẽ tăng
cao. Một số gen ức chế sinh ung thư quan trọng là gen P53 của bệnh ung thư liên
bào võng mạc mắt, gen WT1 trong bệnh u wilms, gen NF1 trong bệnh đa u xơ thần
kinh của Recklinghausen. Ngày nay người ta có thể tìm ra đặc điểm đa dạng của
oncogen hay các chuổi DNA đặc hiệu tiêu biểu cho các chất đánh dấu tính
"nhạy" của ung thư. Các hệ thống mang tính tương đối của của các chất
đánh dấu di truyền dựa trên sự phát hiện trực tiếp của tính đa dạng chuổi DNA
với các men ức chế. Người ta có thể lập ra bản đồ liên kết gen chi tiết ở người
bằng cách dựa và các hệ thống vừa nêu.
Bước nhảy trong lĩnh vực di truyền và các nghiên cứu về gen sẽ cho
nhiều hiểu biết kỳ thú hơn. Một số ung thư di truyền:
1. Ung thư đại trực tràng liên quan đến di truyền: Trên 10% ung
thư đại trực tràng có liên quan đến yếu tố di truyền gôm các loại bệnh sau:
+ Đa polip có tính gia đình: Là
hội chứng trội trên nhiễm sắc thể thường có tỷ
lệ xảy ra khoảng 1/10.0000 người. Hằng trăm đến hàng ngàn
polip khu trú ở thành đại tràng và thường bắt đầu ở tuổi 30-40. Một số polip
trở nên ung thư hóa. Dự phòng bằng cách cắt đại tràng toàn bộ trước
giai đoạn ung thư hóa.
+ Hội chứng Gardner: Cũng là hội chứng biểu hiện đa polip có tính
gia đình
+ Hội chứng Turcot: Polip đại tràng kết hợp u não
+ Hội chứng Lynch: Ung thư đại tràng không polip phối hợp với
nhiều loại ung thư khác như ung thư nội mạc tử cung, dạ dày, bàng quang.
2. Ung thư vú có tính gia đình: Di truyền trên nhiễm sắc thể
thường, tính trội nhưng có tần suất khoảng 4 đến 10%. Có 2 loại:
+ Ung thư vú di truyền: do đột biến gen, có tần suất mắc bệnh cao
+ Gia đình ung thư vú: Do trong gia đình cùng phơi nhiễm yếu tố
nguy cơ cao ung thư vú nhưng có thể không mang gen di truyền. Các yếu tố này
chủ yếu là chế độ ăn, tình trạng kinh tế xã hội, ảnh hưởng của hormone, tuổi
lúc có thai lần đầu. Ung thư thường xảy ra muộn và chỉ vài thành viên mắc ung
thư vú.
3. Các ung thư tuyến nội tiết có tính gia đình: Gồm các loại ung
đa tuyến nội tiết typ 1 và 2. Loại này ít gặp hơn.
4. Các ung thư trẻ em: Có đặc điểm khác ung thư ở người lớn. Hình
thái học rất giống với các khối u của phôi, xâm lấn nhanh ra xung quanh, di căn
xa sớm nhưng rất nhạy cảm với hóa trị. Các loại thường gặp:
+ Ung thư nguyên bào thần kinh (neuroblastoma)
+ U Wilm
+ Sarcoma: thường gặp sarcoma cơ vân
+ Ung thư nguyên bào võng mạc mắt
2. Suy giảm miễn dịch và AIDS
Trên động vật thực nghiệm sự suy
giảm miễn dịch làm gia tăng nguy
cơ bị ung thư. Người bị
suy giảm miễn dịch mang tính di truyền hay mắc phải thường dể bị ung
thư và thời gian ủ bệnh ngắn hơn.
Ở những bệnh nhân ghép cơ quan, sự suy giảm miễn dịch do dùng
thuốc ức chế miễn dịch và corticoide liều cao là rõ nhất. Theo dõi một thời
gian dài 16.000 bệnh nhân ghép thận và được điều trị bằng các loại thuốc ức chế
miễn dịch người ta thấy nguy cơ mắc bệnh u lympho ác không Hodgkin tăng 32 lần,
ung thư gan và đường mật trong gan tăng 30 lần, ung thư phổi tăng 2 lần, ung
thư bàng quang tăng 5 lần, ung thư cổ tử cung gần 5 lần, các melanoma ác tính
và ung thư tuyến giáp tăng lên 4 lần. Sự suy giảm miễn dịch nặng và kéo dài đặc
biệt trong ghép tủy xương còn tăng cao nguy cơ nhiễm các loại virus như EBV,
cytomegalovirus (CMV) và nhiều vi khuẩn cơ hội cũng như nhiều loại bệnh do nấm
candida, aspergilus…làm tỷ lệ tử vong do ghép tăng lên đáng kể.
Người có HIV dương tính, đặc biệt khi chuyển qua giai đoạn AIDS có
nguy cơ rất cao mắc sarcome Kaposi, u lympho ác không Hodgkin và một số ung thư
khác như ung thư vòm, ung thư cổ tử cung.
Sarcome Kaposi có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau khi bị nhiễm HIV,
trái lại u lympho ác không Hodgkin có khuynh hướng xuất hiện cơ địa suy giảm
miễn dịch trầm trọng và nguy cơ có thể gia tăng đến 75 lần so với người bình
thường. Ung thư ở bệnh nhân AIDS làm hạn chế khả năng điều trị và tiên lượng
sống thêm rất ngắn.
3. Nội tiết tố
Một số hormone có tiềm năng gây ung thư. Có 3 loại ung thư liên
quan.
1. Ung thư vú: Dùng liều cao, kéo dài estrogen có thể gây ung thư
vú ở chuột. Các nghiên cứu ở động vật cũng cho thấy estrogen là một chất sinh
ung thư. Các bằng chứng này gợi ý rằng ở những phụ nữ dung thuốc tránh thai có
thể tăng nguy cơ gây ung thư. Nhiều nghiên cứu cho rằng sử dụng estrogen ngoại
sinh không có ý nghĩa gây ung thư vú tuy nhiên cũng có một số tác giả cho rằng
tính an toàn của estrogen chưa được chứng minh.
2. Ung thư nội mạc tử cung: Nhiều nghiên cứu bệnh-chứng cho rằng
sử dụng estrogen làm tăng tỷ lệ ung thư nội mạc tử cung. Tuy nhiên nhiều nhà
khoa học cho rằng dung liều thấp estrogen là an toàn đối với những phụ nữ tiền
mãn kinh và phụ nữ đã cắt bỏ buồng trứng. Hậu quả của liều thấp estrogen gây
bệnh loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương bệnh lý.
Các nghiên cứu vẩn còn tiếp tục để tìm ra nguy cơ gây ung thư nội
mạc của estrogen.
3. Ung thư tuyến âm hộ: Vào năm 1947,
người ta cho rằng estrogen tổng hợp như là DES
(diethylstilbestrol) dung nạp tốt ở phụ nữ có thai, an toàn cho thai nhi và có
hiệu quả phòng sẩy thai nên đã được kê đơn rộng rãi. Cho đến khi có một nghiên
cứu vào năm 1977 cho thấy những người con gái của những bà mẹ được điều trị
bằng DES tăng tỷ lệ loạn sản âm hộ và ung thư nên đã bị cấm và ngày nay biến
chứng này không còn xảy ra.
4. Ung thư tiền liệt tuyến: Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của ung
thư tiền liệt tuyến là tuổi nhưng testosterone sau khi được chuyển hóa thành
dihydrotestosterone là một chất gây tăng sinh nhanh tế bào của tuyến tiền
liệt.Vì vậy Dihydrotestosterone có thể liên quan đến chuyển dạng ác tính và các
nghiên cứu đang thực hiện để quyết định sử dụng chất ức chế sản xuất Dihydrotestosterone
có giảm tỷ lệ ung thư tiền liệt tuyến hay không.
KẾT LUẬN
Thông qua bài này chúng ta nhận thấy nguyên nhân gây ung thư rất
đa dạng, trong đó vai trò của yếu tố môi trường chiếm tỷ lệ cao gây
ung thư ở người. Hút thuốc lá, phơi nhiễm với các hóa chất gây ung
thư trong môi trường nghề nghiệp, phơi nhiễm với phóng xạ gia tăng nguy cơ gây
ung thư. Chế độ ăn không an toàn, suy giảm miễn dịch, sử dụng thuốc độc tế bào
và sữ dụng hormone cũng có vai trò tăng nguy cơ ung thư. Nhiều nghiên cứu thống
kê đã khẳng định vai trò của yếu tố di truyền gây ung thư ở người. Tuy nhiên
ung thư không chỉ được gây nên bởi một tác nhân duy nhất mà có sự tác động bởi
nhiều yếu tố để làm cho tế bào bình thường thay đổi thành tế bào ung thư. Sự
chuyển dạng từ tế bào bình thường thành tế bào ung thư xãy ra khi một hoặc
nhiều oncogen được hoạt hóa.
Mục tiêu quan trọng của việc nghiên cứu nguyên nhân của ung thư là
cung cấp thông tin nhằm hướng đến việc dự phòng ung thư. Xác định được vai trò
của một số yếu tố sinh ung thư thường gặp như thuốc lá, các phụ gia trong thực
phẩm, các virus sinh ung thư là rất quan trọng, từ đó đề ra các phương pháp
phòng bệnh tích cực như phong trào phòng chống hút thuốc lá, các chương trình
tiêm chủng mở rộng phòng viêm gan B, nhằm hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh.